Nâng cao giá trị cho cá tra, basa của Việt Nam đang là vấn đề cấp thiết, nhưng thực hiện được điều này không hề đơn giản, đòi hỏi phải triển khai đồng bộ từ quy hoạch vùng nuôi, con giống, chất lượng... và sự đồng thuận phát triển từ trung ương đến địa phương, và cả người dân. Xoay quanh vấn đề này, đã có nhiều ý kiến được đưa ra.
Ông Lương Lê Phương - Thứ trưởng Bộ NN&PTNN: 3 điều kiện cần để phát triển bền vững cá tra
Thứ nhất, cần đảm bảo cho người nuôi, doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra phải có hiệu quả, tức có lãi. Thứ hai, về mặt xã hội phải đảm bảo công bằng trong phân chia lợi ích của các bên tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất. Trong đó có hai đối tượng chính là người nuôi cá bao gồm: cá nhân, tập thể (có thể là doanh nghiệp, cơ quan, tổ hợp tác, hợp tác) và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Hai đối tượng này cần có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ với nhau. Phải ký kết hợp đồng kinh tế hẳn hoi. Tôi được biết, hiện nay cũng đã có một số doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đã có những hợp đồng cam kết tiêu thụ với những điều kiện rất ưu đãi, đặc biệt cho những hộ nông dân cung cấp cá với sản lượng lớn, ổn định đảm bảo chất lượng cá sạch, an toàn VSTP cho nhà máy. Trong số các nhà máy này thì nổi bật nhất là Công ty CP Thủy sản Bình An ở Cần Thơ, tiếp đến là Công ty CP Hùng Vương. Tôi hy vọng, danh sách các doanh nghiệp tham gia vào việc phát triển bền vững này ngày càng được dài ra. Thứ ba là phải đảm bảo về điều kiện môi trường.
Ngoài ra, phát triển bền vững sản phẩm cá tra còn phụ thuộc vào ý chí quyết tâm của các lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, chủ yếu là lãnh đạo của các tỉnh ĐBSCL; phải chỉ đạo với phương châm “nói đi đôi với làm và phải làm đúng, đủ những gì đã cam kết, hứa hẹn”. Riêng cá nhân tôi mong muốn ngành thủy sản nên áp dụng Global GAP, một tiêu chuẩn đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.
Ông Phạm Anh Tuấn - Phó Tổng cục trưởng thường trực Tổng cục Thủy sản: Đặc biệt là quy hoạch vùng nuôi
Trong Quyết định 332/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2020, thì đến năm 2020, sản lượng nuôi trồng thủy sản cả nước đạt 4,5 triệu tấn, trên diện tích 1,2 triệu ha, trong đó, cá tra sẽ đạt sản lượng khoảng 1,5 đến 2 triệu tấn, tăng trưởng trung bình 4,8%/năm. Điều đó cho thấy, trong 10 năm tới, cá tra Việt Nam vẫn chủ trương tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng bình quân ở mức vừa phải, chú trọng hướng tới phát triển bền vững, đặc biệt là hướng tới việc quy hoạch vùng nuôi. Hiện nay, phần lớn diện tích nuôi cá tra đã thực hiện theo chủ trương này.
Ông Nguyễn Tử Cương - Giám đốc Trung tâm FITES: Sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp và người nuôi thủy sản
Trong quá trình sản xuất và xuất khẩu thủy sản hiện nay đang có nhiều loại giấy chứng nhận. Có thể chia thành 2 nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất - Chứng nhận Nhà nước: Tại các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu phải có hai loại chứng nhận của Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản: (1) Chứng nhận điều kiện sản xuất an toàn thực phẩm; (2) Từng lô hàng trước khi xuất khẩu vào những thị trường như EU, Mỹ, Nhật Bản, Canada, Nga, Trung Quốc, Brazil... phải được kiểm tra và chứng nhận an toàn cho sức khỏe người sử dụng. Tại công đoạn trước chế biến, cần 3 loại chứng nhận: (1) Kết quả chương trình kiểm soát dư lượng hóa chất độc hại trong thủy sản nuôi; (2) Kết quả chương trình kiểm soát an toàn vùng thu hoạch nhuyễn thể 2 mảnh vỏ; (3) Thủy sản khai thác tự nhiên có kiểm soát (IUU). Và trong thời gian tới, các cơ sở nuôi trồng còn phải được kiểm tra chứng nhận nuôi trồng thủy sản bền vững (CoC, GAP – theo các tiêu chí do FAO công bố).
Nhóm thứ hai - Chứng nhận độc lập: Theo thống kê chưa đầy đủ, ở Việt Nam hiện nay có 9 tổ chức phi chính phủ của nước ngoài công bố tiêu chuẩn và chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn (SGS, SQF, GAA, BAP, Global GAP, MSC, ASC, Friend of the sea, Natuland). Nội dung của các tiêu chuẩn này tương tự với nội dung của chứng nhận nhà nước là: An toàn thực phẩm; an toàn môi trường; an toàn bệnh dịch và an sinh xã hội.
Các công đoạn trước chế biến (đặc biệt là nuôi trồng) và doanh nghiệp chế biến phải có giấy chứng nhận nào là do yêu cầu của nhà nhập khẩu hoặc hệ thống bán lẻ. Sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp và càng khó khăn hơn cho những người nuôi thủy sản, trước hàng loạt giấy chứng nhận nêu trên. Bởi vì khi thả giống xuống ao, đầm nuôi, không ai có thể biết trước sản phẩm sẽ được bán cho thị trường nào và hệ thống bán lẻ nào.
Chất lượng con giống là yếu tố quan trọng nâng cao giá trị cho cá tra, basa Việt Nam
Ông Hoàng Văn Bé - Chủ trại cá giống Năm Bé tại Châu Thành, Đồng Tháp: Đoạn tuyệt nuôi theo kiểu phong trào
Khoảng thời gian 2005 - 2007, người dân ĐBSCL thường ví von nuôi cá tra, basa là đưa tay xuống nước lấy vàng. Vì siêu lợi nhuận nên diện tích nuôi cá tra, basa tại các tỉnh ĐBSCL tăng nhanh chỉ trong một thời gian ngắn, hàng loạt trại giống cũng đã được thành lập. Dĩ nhiên, việc tăng trưởng quá nhanh này đã ảnh hưởng đến chất lượng con giống. Nếu theo quy trình kỹ thuật thì cá bố mẹ mỗi năm chỉ sinh sản 2 lần. Thế nhưng, nhiều trại giống sử dụng chất kích thích sinh sản “hóa phép” cho đàn cá bố mẹ cứ 3 tháng sinh sản một lần. Về cơ bản, giống cá tra, basa này khi được nuôi vẫn phát triển bình thường nhưng tốc độ lớn của cá sẽ giảm. Vì thế, lượng thức ăn được cá hấp thụ không nhiều (nếu so với giống cá tra, basa được sinh sản theo đúng quy trình kỹ thuật mà Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 hướng dẫn), kèm theo đó là tỷ lệ cá chết tăng do sức đề kháng giảm, kéo theo chi phí thú y cũng tăng trong khi giá bán cá tra, basa trong những năm 2008 - 2010 liên tục giảm nên diện tích nuôi cá tại ĐBSCL bây giờ đã giảm đi đáng kể.
Bây giờ người nuôi cá tính toán rất kỹ về kỹ thuật, chi phí đầu vào, giá bán ra thì mới nuôi, chứ không nuôi theo kiểu phong trào như vài năm trước. Nhiều người nuôi khi đến đặt mua con giống của trại tôi họ còn yêu cầu được biết lịch trình cụ thể như cá bố mẹ được nuôi như thế nào, ở đâu, lịch sinh sản của cá bố mẹ như thế nào. Tôi nghĩ đó là một cách tốt để nghề nuôi cá tra, basa cũng những chuỗi liên quan từ con giống, nhà máy chế biến, đại lý thú y tự đào thải lẫn nhau để đi đến bền vững hơn.
Ngọc Hùng - Thu Hồng
(Thực hiện)
Nguồn: tạp chí Thủy sản Việt Nam