Chất lượng cá giống là một yếu tố quyết định trong
chăn nuôi thủy sản song lại chưa nhận được sự quan tâm và quản lý đúng
mức. Nhằm giúp bà con hiểu rõ hơn yếu tố quan trọng này, chuyên gia
ngành thủy sản của Công ty CP GreenFeed Việt Nam xin chia sẻ những thông
tin thiết thực để giúp bà con chọn đúng con giống mang đến kết quả tốt
nhất trong chăn nuôi.
Có thể nói chất lượng cá giống phụ thuộc vào hai yếu tố then chốt:
- Chất lượng đàn cá bố mẹ và kỹ thuật sinh sản.
- Kỹ thuật ương nuôi và vận chuyển cá giống.
1. Chất lượng đàn cá bố mẹ và kỹ thuật sinh sản là yếu tố ảnh
hưởng rất nhiều đến chất lượng cá giống, thể hiện ở các điểm sau:
* Các yếu tố di truyền: Thông qua chọn lọc nhân tạo và các phương
pháp di truyền, người ta có thể tạo ra những loài, dòng nuôi mới có
phẩm chất vượt trội để đưa vào sản xuất. Có hai hiện tượng liên quan tới
yếu tố di truyền, thường ảnh hưởng tới chất lượng cá giống tại các cơ
sở sản xuất là sinh sản cận huyết và lai tạo giống.
- Cận huyết là sinh sản giữa 2 cá thể gần nhau về huyết thống. Cận
huyết thường dẫn tới suy thoái như giảm sinh trưởng, sức sinh sản và
sức đề kháng. Để tránh ảnh hưởng cận huyết, các cơ sở sản xuất giống
nên thường xuyên trao đổi đàn cá hậu bị với các trung tâm giống hoặc các
cơ sở khác, chọn ngẫu nhiên từ đàn cá hậu bị để tạo đàn cá bố mẹ và
duy trì số lượng đàn cá bố mẹ tối thiểu là 50 cặp.
- Lai tạo giống đã và đang là một phương pháp hữu hiệu nhằm tạo
giống sản xuất có những phẩm chất ưu việt hơn giống gốc. Con lai có thể
cùng loài hoặc khác loài. Tuy nhiên, không được sử dụng con lai làm cá
bố mẹ do mất hiệu ứng trội ở thế hệ con và làm giảm chất lượng.
* Tuổi và cỡ cá bố mẹ: Mỗi loài cho trứng và cá con chất lượng cao ở
1 độ tuổi nhất định, như cá trắm cỏ 4 - 7 tuổi, mè trắng 3 - 6 tuổi,
rô phi 1 - 2 tuổi. Cỡ cá bố mẹ cũng ảnh hưởng đến sức sinh sản và kích
cỡ trứng.
* Điều kiện nuôi vỗ: Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh
sản, chất lượng trứng và cá bột. Khi gần trưởng thành, trọng lượng
buồng trứng tăng nhanh đòi hỏi cá được tích lũy dinh dưỡng đầy đủ từ
trước. Nếu cho ăn không đúng, không đủ, sức sinh sản sẽ giảm, cỡ trứng
nhỏ và kéo dài vụ đẻ. Ngoài ra, các yếu tố môi trường như nhiệt độ, ôxy
hoà tan, kích thích nước... cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình hoàn thiện
bộ máy sinh sản của cá.
* Mùa vụ sinh sản: Trứng có chất lượng cao nhất khi cá bố mẹ trưởng
thành hoàn chỉnh và được thụ tinh đúng lúc. Trứng non hoặc già chất
lượng đều kém. Vì vậy, cho cá bố mẹ sinh sản đúng thời điểm sẽ góp phần
duy trì và nâng cao chất lượng cá giống.
* Tái phát dục: Nhiều loài cá nuôi trong điều kiện sinh sản nhân tạo
có khả năng đẻ nhiều lần trong năm. Sau lần đẻ đầu tiên trong năm, các
lần đẻ sau được gọi là sinh sản tái phát (lần 1, lần 2...). Tuy nhiên
cá đẻ nhiều lần không tốt, các lần đẻ sau thường chất lượng sinh sản
thấp như sức sinh sản giảm, đường kính trứng giảm, cá bột không đều và
nhỏ. Tốt nhất nên cho đẻ tái phát 1 lần và cách lần đẻ thứ nhất một
thời gian cần thiết, ví dụ với cá mè, trắm cần khoảng 36 - 45 ngày.
2. Kỹ thuật ương nuôi và vận chuyển cá giống
Cá bột là nguồn đầu vào và ảnh hưởng lớn đến kết quả ương và chất
lượng giống. Chất lượng cá bột phụ thuộc nhiều vào chất lượng đàn cá bố
mẹ và kỹ thuật sinh sản, mật độ nuôi, quá trình chăm sóc và quản lý ao
nuôi, kỹ thuật vận chuyển giống. Hiện nay một phần giống được cung cấp
tới người nuôi thông qua những thương lái trung gian, do thiếu kỹ thuật
hay muốn thu nhiều lợi nhuận mà thương lái đã bán cho người nuôi con
giống chất lượng kém (do vận chuyển xa, lưu giữ lâu ngày cá bị mệt, trầy
xước, lây nhiễm bệnh...).